Sunday, May 31, 2009
Điện thoại liên lạc tìm mộ liệt sĩ ở tỉnh Quảng Bình
Ban chính sách Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình: 069-785148.
Hàng năm đoàn 589 tổ chức qui tập mộ liệt sĩ ở Lào, trong đó có tỉnh Khăm Muộn.
Dư âm xúc động của 'Âm vang Trường Sơn'
> Cầu truyền hình trực tiếp 'Âm vang Trường Sơn'
Nhà báo Ngô Thanh phỏng vấn khách mời tại điểm cầu Hà Nội - Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh. Ảnh: Nguyen Nguyen.
Đây không phải là câu chuyện đặc biệt nhất. Khán giả xem “Âm vang Trường Sơn” còn được nghe những dung dị, chân thật được thuật lại từ những nhân chứng lịch sử. Sư Thích Đàm Đoán, người nữ thanh niên xung phong năm xưa với di chứng còn lại của chiến tranh: một cơ thể nhiễm chất độc dioxin và mảnh đạn trong đầu. Không ít lần sư Đoán bị lên cơn co giật, cách đây không lâu, bà bị ngất xỉu do vết thương tái phát khi lên bục nhận quà nhân ngày bộ đội Trường Sơn. Cô Phạm Thị Phàn, thành viên tiểu đội nữ lái ôtô Trường Sơn, thời con gái chỉ nặng 42 cân, phải đệm hai chiếc bi đông nước sau lưng mới với tới được chân ga, chân phanh. Đại tá, nhà thơ Nguyễn Trọng Khoát làm thơ trên đường khiêng võng người bạn gái bị thương tới trạm xá với những câu thấm đẫm tâm trạng đau đớn: “Trời khô đường nắng chang chang / Võng thưa máu giọt ấm bàn chân anh / Lối vào trạm xá loanh quanh / Em ơi đừng vĩnh biệt anh dọc đường” sau được đựng trong lọ Penicillin chôn cùng mộ liệt sĩ Phạm Thị Ngọc Huệ. Trải qua hàng mấy chục năm, có người nhặt được ở cửa sông đã tìm đến tận nhà đưa cho ông…
Ca sĩ Lan Anh - Tấn Minh trong "Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây". Ảnh: Nguyen Nguyen.
Bà Nguyễn Thị Nhài, nữ thanh niên xung phong Trường Sơn năm xưa, không khỏi bùi ngùi khi theo dõi chương trình: “Tôi như sống lại những năm tháng bi hùng của dân tộc, nhớ về những người bạn tôi quen, những người đồng chí tôi chưa từng biết mặt đã ngã xuống trên cánh rừng đại ngàn. Con cháu tôi không trải qua giai đoạn lịch sử này nhưng cũng không cầm nổi nước mắt khi xem clip Đồng đội ơi do ca sĩ Tấn Minh hát với sự có mặt của 50 cựu chiến binh thắp 500 ngọn nến tưởng nhớ đồng đội ở nghĩa trang Trường Sơn trong phần cuối chương trình”.
Để thực hiện một cầu truyền hình lấy được nước mắt người xem, thu hút khán giả trẻ, Đài Truyền hình Hà Nội đã huy động một lượng lớn nhân lực, vật lực tại năm điểm cầu: Hà Nội - Bảo tàng đường Hồ Chí Minh (Hà Đông); Quảng Trị - sân bay Tà Cơn (Khe Sanh, Hướng Hoá); Bình Phước - Nhà giao tế huyện Lộc Ninh; Kon Tum - ngã ba Đông Dương (huyện Ngọc Hồi); Savanakhet - Buôn Latho (Lào). Áp lực của những người làm chương trình rất lớn do “Âm vang Trường Sơn” chung chủ đề nhưng thực hiện sau Đài Truyền hình Việt Nam 1 tháng, không tránh khỏi việc khán giả lấy chương trình của VTV làm tham chiếu. Chương trình VTV thực hiện tại một điểm cầu với sân khấu hoành tráng, trong khi Đài Hà Nội gồng mình với bốn điểm cầu trong nước và một điểm cầu tại nước bạn Lào, sử dụng bối cảnh thực và luân chuyển liên tục. "Đây là cầu truyền hình đầu tiên do Đài thực hiện có sự kết nối với một điểm cầu ở nước ngoài", ông Trần Gia Thái - Giám đốc, Tổng biên tập Đài truyền hình Hà Nội, người chỉ đạo nội dung chương trình - cho biết.
Kinh phí thực hiện chương trình chỉ hơn 1 tỷ đồng, ngoài dàn dựng, chủ yếu để trả cho những đài bạn cùng hợp tác còn nhân viên đài cố gắng "bóp mồm bóp miệng". Riêng để viết kịch bản cho chương trình này, nhà báo Ngô Thanh đã dành 27 ngày rong ruổi dọc Trường Sơn, đi tổng quãng đường dài 7.000 cây số. Bà Trịnh Phương Mai, Trưởng ban Thể thao - Giải trí Đài Hà Nội, thốt lên rằng: “Chưa bao giờ Đài làm một chương trình nào khó khăn như thế”.
Trong quá trình làm "Âm vang Trường Sơn", những người thực hiện đều tâm niệm đây là chương trình tưởng niệm công ơn các chiến sĩ Trường Sơn và tin linh hồn những người lính ngã xuống nơi đây đã phù hộ cho họ. Khi điểm cầu Kon Tum - ngã ba Đông Dương chuẩn bị lên sóng thì trời đổ mưa như trút. Biên tập viên vào đài tưởng niệm Play-cần thắp hương, chưa khấn xong thì trời tạnh. Một tin vui nữa cho các biên tập viên Đài Hà Nội: Sáng 18/5, một người phụ nữ gọi điện đến Đài thông báo là người nhà của liệt sĩ Phạm Thị Ngọc Huệ, xin số của bác Nguyễn Trọng Khoát để báo với bác, gia đình đã tìm được mộ chị. Đây là niềm vui đến chỉ sau một đêm khi vị đại tá, nhà thơ lên truyền hình kể câu chuyện về người đồng đội và cho biết: “Điều ân hận lớn nhất đời tôi là không tìm được mộ cho Huệ”.
Ngọc Trần
Nguồn: VnExpress (Thứ ba, 19/5/2009, 14:21 GMT+7)
Phóng viên Ngọc Trần (tên thật là Trâm) cho biết: Thông tin tìm được mộ do anh Ngô Thanh Đài TH Hà Nội cung cấp. Anh Ngô Thanh nói là có thể nhầm lẫn tên liệt sĩ. Theo anh Ngô Thanh, người gọi điện đến đài truyền hình Hà Nội xin số điện thoại của ông Trọng Khoát và nói gia đình đã tìm được mộ (đây là chỗ có thể có nhầm lẫn tên liệt sĩ - theo anh Ngô Thanh). Ông Trọng Khoát nói: có người gọi đến cho ông sau chương trình này nhưng không nói gì đến chuyện tìm được mộ. Người gọi đến chỉ hỏi thăm, chúc mừng ông Khoát lên chương trình, nhận là bạn học cùng bà Huệ ở trường Hoa Lư và cùng đi thanh niên xung phong.
Đúng là tam sao thất bản!
Đến 12h44 ngày 1/6/2009 VnExpress đã bỏ đoạn bôi đỏ đi sau khi có thông tin phản hồi từ gia đình LS Phạm Thị Ngọc Huệ (chưa tìm được mộ).
Những người làm tờ báo đầu tiên của Bộ đội Trường Sơn
Những phóng viên của tờ Trường Sơn năm xưa có người đã hy sinh ngay trên chiến trường, có người vừa mới ra đi vì tuổi cao sức yếu, cũng có người còn sống và thành đạt, nhưng tất cả đều tự hào về những năm tháng làm báo ở chiến trường.
Tờ báo nơi đầu tuyến lửa
Đại tá Lục Văn Thao, Tổng Biên tập duy nhất của báo Trường Sơn bây giờ đã ngoài 80 tuổi. Ông vẫn còn giữ hai số báo của tờ Trường Sơn và như là một thứ kỉ niệm nhắc nhở về một thời làm báo đầy kỳ tích ở chiến trường.
Những năm 1965 - 1966, ấn phẩm báo chí đầu tiên của Bộ Tư lệnh Trường Sơn ra đời, mang tên "Hoa thắm Trường Sơn", sau một thời gian thì đổi thành tờ "Trường Sơn gang thép". Lúc này tờ báo đăng tải những thông tin đơn thuần về hoạt động của bộ đội trên khắp dải Trường Sơn.
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Hoàng Kim Đáng - một trong những phóng viên gắn bó với tờ báo từ những ngày đầu nhớ lại: "Ở tờ “Trường Sơn gang thép” hồi đó ngoài tôi ra còn có đồng chí Cao Cân và cô Phạm Thị Ngọc Huệ. Tờ báo chẳng có Tổng biên tập hay Thư kí toà soạn. Cả ba chúng tôi đều phải kiêm trách nhiệm của cả phóng viên và biên tập viên".
Toà soạn của báo hồi đó chỉ có một cái lán trại nhỏ và một cái hầm tránh đạn, nhưng địa điểm thì liên tục thay đổi tuỳ theo yêu cầu của cuộc chiến và để tránh những cuộc tấn công của địch. Không có phương tiện kỹ thuật để in ảnh, phóng viên của báo phải viết bài và vẽ minh họa trên giấy nến rồi mới đem đi in. Nhưng trong thời kỳ đó, dù không ra được định kỳ, tờ "Trường Sơn gang thép" vẫn xuất bản khá đều đặn 1 - 2 số báo/tháng với số lượng hơn 1.000 bản để phát đến cấp đại đội, cung cấp thông tin quý giá cho những người lính nơi tuyến lửa.
Phải đến tận năm 1969, khi báo "Trường Sơn gang thép" đổi tên thành báo "Trường Sơn", tờ báo mới bắt đầu được in tipô. Nhà báo Lục Văn Thao (khi ấy là Trưởng phòng Quân sự báo Quân đội nhân dân tăng cường cho Trường Sơn) trở thành Tổng biên tập đầu tiên và cũng là duy nhất của báo Trường Sơn.
Ông nhớ lại: "Tờ báo Trường Sơn của chúng tôi đã ba lần thay tên và mỗi lần đổi tên là một lần nó được lột xác. Phóng viên của báo chỉ hơn 10 người nhưng luôn túc trực ở những cao điểm nóng như trọng điểm ATP, đỉnh Xeng Phan... Từ một tờ tin nội bộ, báo Trường Sơn đã phát triển thành một tờ báo đúng nghĩa, với lượng thông tin dồi dào, trở thành tờ báo được yêu thích nhất ở chiến trường".
Từ năm 1969 đến 1975, trung bình mỗi số tờ Trường Sơn in 5.000 bản, cấp phát đến cho từng đơn vị. Những người lái xe tại Trường Sơn nghiễm nhiên trở thành những "tình nguyện viên" phát báo. Những bịch báo được ném dọc hai bên đường đi để cho bộ đội hành quân tự mang về đơn vị. Bất kể điều kiện làm báo thời chiến có thiếu thốn, báo Trường Sơn vẫn thực sự được các chiến sĩ yêu quý. Ông Thao tự hào nói: "Nhiều tờ báo được chiến sĩ truyền nhau đọc đi đọc lại đến nát cả ra. Nhiều chuyên mục hay như tấm gương người lính trong chiến đấu, các tác phẩm thơ văn đã trở thành chuyên mục yêu thích của người lính”.
Những người làm báo nơi chiến trường
Tham gia xây dựng báo Trường Sơn ngày ấy có nhiều cây bút tên tuổi như nhà thơ Phạm Tiến Duật, nhà văn Lê Lựu, nhà báo Như Phong... Họ đều là những cây bút được các chiến sĩ yêu thích.
Trong hoàn cảnh chiến tranh, có những nhà báo của tờ Trường Sơn đã nằm lại mãi ở chiến trường. Những người từng công tác ở báo Trường Sơn vẫn tiếc nuối cho sự ra đi của nữ phóng viên Phạm Thị Ngọc Huệ. Là một cô gái thông minh và tràn đầy nhiệt huyết tuổi trẻ, chị bỏ giảng đường đại học, viết thư bằng máu để tình nguyện đến chiến trường.
Hồi ấy, Ngọc Huệ là bông hoa đẹp nhất của núi rừng Trường Sơn, không chỉ thế, chị còn hát rất hay và có khả năng chơi cờ vào bậc cao thủ. Trong những ván cờ, chị đã từng đánh bại cả chỉ huy của Bộ Tư lệnh Trường Sơn và những chuyên gia Trung Quốc vốn nổi tiếng cao cờ. Nhiều nhà văn, nhà thơ đi thực tế ở chiến trường đã phải thốt lên rằng: "Chưa gặp Ngọc Huệ là chưa hiểu hết về Trường Sơn".
Là phóng viên nữ duy nhất của báo Trường Sơn, chị được tất cả các đơn vị bộ đội yêu quý, chào đón. Chị còn được Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên nhận làm con nuôi. Trong một lần đi tác nghiệp cùng với đoàn văn nghệ ở đèo Pú Khao (thuộc tỉnh Khăm Muộn - Lào), chị đã bị vướng mìn và hi sinh do mất quá nhiều máu. Chị được an táng ngay tại chiến trường Lào, nhưng tiếc là đến nay, dù không ít lần bỏ công tìm kiếm, đồng đội vẫn chưa thể tìm thấy mộ chị. Thế hệ những người làm báo Trường Sơn cách đây 40 năm đều đã trở thành những nhà văn, nhà báo, nhà nhiếp ảnh nổi tiếng. Nhiếp ảnh gia nổi tiếng Hoàng Kim Đáng từng giữ chức Phó tổng thư ký Hội Nhiếp ảnh Việt
Vĩnh Linh
Sunday, May 17, 2009
Nhớ lắm Trường Sơn ơi! 1:30, 11/12/2008
Văn công đến hát bên mâm pháo
Xạ thủ ngồi nghe, mắt ngưỡng thiên
Tai hướng bài ca, tai trực chiến
Giữa hai trận đánh phút bình yên.
(Thơ viết về Trường Sơn)
Trong tập thơ viết ở Trường Sơn của Nguyễn Trọng Khoát in năm 1997, lời mở đầu, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã viết rằng: "Tuyến đường vận tải mang tên Bác Hồ vĩ đại không chỉ có các binh chủng và các phương tiện thuần túy quân sự mà thực sự còn có một binh chủng đặc biệt - Binh chủng văn học nghệ thuật. Nếu không có Trường Sơn, không sinh ra được những tên tuổi sáng chói… và cả tôi cũng vậy, nếu không có Trường Sơn chắc không có thơ Phạm Tiến Duật. Trường hợp Nguyễn Trọng Khoát là một trường hợp đặc biệt. Anh nổi tiếng trước tôi, trước Lê Lựu và những bạn bè khác của tôi. Anh thuộc thế hệ Phạm Ngọc Cảnh, Thu Bồn, Duy Khán và những người khác.
Nhưng cuộc đời không dành cho anh những ưu ái với nghề mà anh yêu. Anh phải lao vào cuộc chiến mà không còn chút thì giờ nào cho phép anh được sửa soạn. Và chính anh cũng hồn nhiên đến mức không tự lo gì cho chính mình: Tất cả là dành cho đời, cho người. Cho tận mấy chục năm hòa bình, tập thơ viết ở Trường Sơn mới được in ra…".
Đại tá, nhà thơ Trọng Khoát sinh ra trong một gia đình truyền thống cách mạng ở Nam Đàn, Nghệ An. Chú của ông chính là ông Nguyễn Trọng Cảnh (tức Trần Quốc Hoàn - từng là Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh đầu tiên, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị - Bộ trưởng Bộ Công an) và cậu ruột là ông Nguyễn Tiềm - Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An đầu tiên - Chủ tịch Xôviết Nghệ Tĩnh từng bị Pháp đày đi tù và hy sinh tại Lao Bảo năm 1932. Ngay từ thuở ấu thơ, ông đã chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần cách mạng từ gia đình.
Thuở nhỏ, Nguyễn Trọng Khoát học trường Tây, mười tám tuổi đã xung phong đi bộ đội. Năm 1950, ông vào học Sỹ quan Lục quân khóa 6 Trung Bộ. Tốt nghiệp ra trường được phân công làm cán bộ quân báo của Bộ tổng tham mưu, đi vào vùng địch hậu.
Năm 1953, là chiến sỹ vô tuyến điện tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Tại đây, ông đã có một án kỷ luật nhớ đời. Số là một lần, ông đã dịch sai một bức điện mật dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Địch giội bom xuống Nà Sản, ta không kịp trở tay, nên thương vong rất nhiều. Sau sai sót ấy, Nguyễn Trọng Khoát phải về nhận án kỷ luật.
Bản thân ông trong trận ném bom ấy cũng bị thương nặng ở đầu, bị kênh hộp sọ, lòi cả xương sọ ra. Thế nhưng, tuổi trẻ với sức sống mãnh liệt đã cứu ông thoát khỏi cái chết. Do bị thương nên án kỷ luật coi như được xóa, nhưng ông không được hưởng chế độ thương binh do phạm sai lầm nghiêm trọng trong công tác. Sau đó, ông được cấp trên cho đi học tập để rèn luyện thêm về tư tưởng và bản lĩnh chiến đấu.
Năm 1954, ông về tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Cuối năm 1954, ông được biệt phái đi làm công tác ở nông thôn 2 năm để tiếp tục rèn luyện và thử thách, như làm công tác cải cách ruộng đất ở Thái Nguyên, chống đói ở Bắc Giang, phát động giảm tô ở Vĩnh Phúc.
Năm 1964, ông được về phụ trách Chủ nhiệm giáo viên văn hóa, trợ lý chính trị tại Trường Sỹ quan Lục quân I. Thời gian này, ông tốt nghiệp thủ khoa một lớp tại chức tiếng Nga. Lúc này, tên tuổi Trọng Khoát đã được biết đến với vai trò là một nhà thơ với những bài thơ chống Pháp, chống Mỹ khá nổi in trên báo chí.
Tháng 5/1965, Nguyễn Trọng Khoát được lệnh tham gia Binh đoàn Trường Sơn hoạt động ở tuyến Nam Lào với vai trò là trợ lý văn hóa văn nghệ. Ngay cả lý do vào Trường Sơn cũng thật hồn nhiên và khác thường! Do đỗ thủ khoa lớp tiếng Nga, Trọng Khoát đề đạt nguyện vọng được đi nước ngoài học tập. Ngay sau đó, đơn vị cho ông sang Lào tham gia tuyến đường Trường Sơn.
Trưởng ban cán bộ nhà trường chỉ huy giải thích: "Lào cũng là nước ngoài, đồng chí vừa thỏa mãn nguyện vọng được đi nước ngoài, vừa được tham gia tuyến đường Trường Sơn!". Một lần nữa, Trọng Khoát lại vác ba lô lên vai, hồn nhiên bước vào cuộc chiến chống Mỹ, tham gia chiến trường ác liệt nhất ở tuyến Nam Lào.
Thời gian này, đường Trường Sơn bắt đầu có xe cơ giới. Tuyến chi viện chiến lược chuyển sang phía Tây trên đất bạn Lào. Khi đó bộ đội vẫn còn bị ám ảnh bởi phương châm hoạt động: "Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng", cho nên đời sống văn hóa gần như không có gì. Khi đó khái niệm công tác văn hóa chỉ là dạy văn hóa.
Nguyễn Trong Khoát đã vào Trường Sơn và chuyển hướng vừa dạy văn hóa vừa đưa văn hóa văn nghệ vào đời sống tinh thần của bộ đội. Lúc này Trường Sơn đang là mùa lũ lớn của thượng nguồn sông Xê Băng Hiên, Xê Kông nên bộ đội gặp trận đói lịch sử. Bộ Tư lệnh Trường Sơn vừa được bổ sung 5 đại đội pháo cao xạ 12 ly 7.
Trước tình hình đó, Chính ủy Vũ Xuân Chiêm nói: "Văn nghệ bây giờ chưa cần, pháo cũng chưa cần" và ông giao cho Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Trọng Khoát cùng Chính trị viên Lê Hồ chỉ huy 5 đại đội pháo cao xạ mỗi người gùi 50 kg lương thực và nhu yếu phẩm, thuốc men để đi cứu đói cho các công trường. 5 đại đội đi đến đâu, mang lương thực, nhu yếu phẩm cứu đói cho thanh niên xung phong ở các công trường và không quên cất cao lời ca tiếng hát “át tiếng bom, át cái đói rét”. Nhưng đây cũng chính là giai đoạn ám ảnh trong ký ức của Trọng Khoát nhiều nhất về sự gian khổ của lính Trường Sơn.
Đi vào sâu Trường Sơn, đến những đại đội thanh niên xung phong làm đường phần đông là con gái. Họ bị đói giữa rừng sâu quá lâu, nhu yếu phẩm cho con gái lại không có, cái đói và sốt rét rừng Trường Sơn đã làm cho nhiều chị em ốm o, gầy mòn, rụng hết tóc, không có hành kinh, sốt la liệt trong rừng. Có những anh nuôi thương con gái đói quá, mò vào rừng đi đào củ mài, sập bẫy chông của dân bản, suýt chết.
5 đại đội pháo cao xạ do Trọng Khoát chỉ huy đã tiếp tế đủ 15 tấn hàng lương thực nhu yếu phẩm cho 3 công trường để cứu đói và chữa bệnh tật. Trên đường rút quân ra, 5 đại đội do ông chỉ huy được lệnh chặt cây làm đường cho xe vượt qua các bãi lầy thay cho ý tưởng làm đường "sàn đạo" cho xe đi qua 4 mùa vì gặp mưa lầy nên không thực hiện được.
Thời điểm đó, rải rác khắp dọc tuyến đường từ Pha Nốp vào Xeng Phan là đoạn đường lầy 45km có các tổ xe "Ngọn đèn xanh" của Tổng cục Hậu cần từ Bắc đi thẳng vào Nam Trường Sơn tiếp tế cho Khu 5 thì mắc lũ. Lũ kéo dài gần 3 tuần lễ. Đoàn xe bị chia cắt.
Ông còn nhớ mãi một người lái xe tên Toàn trông 1 cái xe chất đầy 2,5 tấn gạo. Do bị lũ phải dừng lại giữa rừng. Bầy khỉ luôn tấn công, cướp gạo, nên anh phải canh chừng ngày đêm. Khẩu phần cá nhân anh đã ăn hết sau những ngày đợi lũ rút. Đói quá, anh đi đào củ mài trong rừng sâu. Anh đã bị ngất bên hố khoai mài, được bà con dân bản phát hiện cứu sống. Dù có phải chết đói, những người lính lái xe chở đầy những xe gạo cho tiền tuyến quyết không đụng chạm đến một hạt gạo của chiến trường.
Đường cho xe qua bãi lầy dự kiến làm trong 20 ngày nhưng chỉ mới 12 ngày đã hoàn thành. 5 đại đội pháo rút quân ra. Trên đường hành quân một đồng chí đã bị bom hy sinh. Lần đó, Trọng Khoát cùng Đại đội trưởng Phan Văn Nhật suýt bị truy tố trước tòa án quân sự vì làm sai lệnh, dẫn đến thương vong lính. Song, xét những công trạng đã đạt được, cả Trọng Khoát và Đại đội trưởng Phan Văn Nhật được xoá án.
Tháng 12/1965, đồng chí Hồng Kỳ vào nhận nhiệm vụ Chủ nhiệm Chính trị của Mặt trận 559. Trọng Khoát được giao nhiệm vụ phát động phong trào văn nghệ quần chúng và lập tờ thông tin thi đua "Hoa thắm Trường Sơn" chuyên viết về gương thi đua. Ông vừa là thư ký tòa soạn kiêm biên tập, kiêm trình bày, minh họa (hiện tờ thông tin vẫn còn được lưu giữ ở bảo tàng Trường Sơn).
Cuối năm 1966, Trọng Khoát nhận nhiệm vụ đi vào Cực Nam của tuyến C4 - Biên giới Đông Campuchia cùng với đồng chí Hồng Kỳ. Ở mặt trận phía Nam, bộ đội không còn thiếu đói nữa nhưng sốt rét luôn hoành hành.
Trên đường Trường Sơn có những nấm mộ bộ đội do mối đùn lên. Đất Campuchia không có thủ tục chôn người. Anh em bị sốt rét hy sinh, phải đưa xuống thuyền mảng thả trôi sông xuống phía dưới mới được chôn cất. Bộ đội ta hồi ấy bị sốt rét ác tính, trước khi chết chỉ có một nguyện vọng là được chôn cất ở Hạ Lào.
Thời điểm này, có một đại đội xe con của Tiểu đoàn 61 chở gạo từ Bắc Campuchia ra Hạ Lào. Dọc đường đơn vị bị địch đánh trúng đội hình cháy 6 xe và hy sinh 12 đồng chí. Để tiếp tục cho 8 xe còn lại hành quân, đồng chí Chính trị viên đã phải tạm dấp lá mắc màn bạt giữa rừng tránh ruồi nhặng bâu quanh thi thể 12 anh em đã hy sinh nhưng chưa có điều kiện mai táng. Đến đêm, anh em mới quay trở lại nơi 12 người lính còn nằm dưới các đống lá ở gốc cây và cho mai táng giữa đêm khuya để tránh bị lộ. Sau này, không ai còn nhớ chính xác địa điểm mai táng để tìm được mộ phần, đưa hài cốt anh em về quê hương.
Binh chủng văn hóa văn nghệ trong thời gian tham gia tuyến đường Trường Sơn cũng có nhiều đồng chí bị hy sinh. Trọng Khoát đã có bài thơ xúc động viết về người đồng đội Ngọc Huệ hy sinh ở trọng điểm Phú Khao tháng 12/1969 trong lúc đang làm nhiệm vụ: Số phận của bài thơ này cũng rất kỳ lạ, ông đã viết nó và bỏ vào lọ thủy tinh cùng tên và địa chỉ liệt sỹ.
Tháng 6/1975, đoàn quy tập không tìm được hài cốt Huệ vì bom đạn đánh tan tành khu vực nghĩa trang. 20 năm sau, năm 1995, nhân một cuộc họp mặt, một chiến sỹ công binh ngày trước ở Trường Sơn đã nhặt được bài thơ này trên đường ra Bắc qua Phú Khao và mang trả lại cho chính tác giả trong nước mắt nghẹn ngào: "Nằm yên em nhé, ngủ ngon/ Để cho đầu cáng anh còn trở vai/ Đèo thì cao, dốc thì dài/ Vai đòn anh nghiến, phồng, chai, lại phồng/ Đau hơn là nỗi đau lòng/ Ghìm sâu tiếng nấc khỏi rung cánh đòn!/ Nằm yên em nhé ngủ ngon/ Máy bay giặc lượn anh còn ngụy trang/ Trời khô, đường nắng chang chang/ Võng thưa, máu giọt nóng bàn chân anh/ Lối vào trạm xá loanh quanh/ Em ơi đừng vĩnh biệt anh dọc đường/ Lời thương đồng đội, lời thương/ Những ai nằm lại chiến trường hôm nay".
Sau chiến tranh, Trọng Khoát về công tác ở Ban Ký sự lịch sử của Phòng sử - Ban Khoa học Tổng cục Hậu cần. Trọng Khoát cho ra đời 3 tập thơ, một tập văn xuôi và 3 tập ký sự đầy đặn. Nhưng nổi bật nhất trong những sáng tác của ông có lẽ phải kể đến tập thơ "Thơ viết về Trường Sơn" và tập văn xuôi: "Kể chuyện 12 con giáp Trường Sơn". Thơ Trọng Khoát hóm hỉnh, lạc quan, nhưng có những bài đọc lên ứa nước mắt: "Trận địa chiều nay/ Pháo ngẩng cao đầu yên lặng/ Đạn đã lên nòng chờ lệnh bắn/ Có mũi dao nào cắm giữa trái tim ta/ Lê Xuân Kình đã hy sinh trên cáng/ Dẫu đường về trạm phẫu không xa/ Đời bộ đội tôi ít khi òa khóc/ Như chiều nay, nhìn tờ giấy thư anh/ Viết trên cáng từ máu loang tay ướt/ "Hãy trả thù cho tôi", chữ ký "Lê Kình"/ Anh lấy máu từ vết thương trên ngực/ Tấm bản đồ trận địa lót sau lưng/ Đồng đội cáng anh đâu biết được/ Có phút giây quằn quại trên đường...".
Cũng chính nhà thơ Phạm Tiến Duật đã viết: "Tôi phải thú nhận rằng, nếu nói cho rõ về tuyến đường 559 thì Trọng Khoát mạnh hơn tôi nhiều. Tôi đã có hàng chục năm lăn lộn ở mặt trận và ghi nhận rằng, từ tướng lĩnh đến chiến sỹ đều thuộc thơ Trọng Khoát. Thơ anh đằm thắm, tinh tế và đặc biệt là sự hóm hỉnh. Tôi chỉ muốn nói với bạn đọc rằng từng dòng, từng chữ trong tập thơ này, nhà thơ Trọng Khoát đã viết không chỉ bằng mực mà còn bằng cả các trận bom, trận sốt rét dữ dằn của biết bao năm gian khổ. Hãy đừng quên Trường Sơn và vì thế, đừng bao giờ quên nhà thơ Trọng Khoát, nhà thơ đầy tâm huyết với tuyến đường Hồ Chí Minh"…
Dương Thục Anh
Nguồn: http://antgct.cand.com.vn/vi-vn/nhanvat/2008/12/52631.cand?Page=1
Quảng Bình: Tổ chức lễ an táng 78 hài cốt liệt sĩ hy sinh tại chiến trường Lào
Quy tập hài cốt liệt sĩ ở Lào - Chuyện chưa kể
Đoàn 589 thuộc Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Bình thành lập từ năm 1989 với mục đích tìm kiếm, cất bốc hài cốt liệt sĩ bộ đội Việt Nam hy sinh ở Lào. Trước năm 1999 đoàn chủ yếu khảo sát địa hình địa vật nơi có bộ đội hy sinh. Từ năm 1999 đến nay, Đoàn 589 cất bốc được 1.754 hài cốt liệt sĩ từ Lào về Việt Nam. Thượng Tá Trần Quang Lộc, nguyên Đoàn trưởng Đoàn 589 đã dành riêng cho Báo SGGP câu chuyện đi tìm đồng đội thấm đẫm nhân văn.
Giấc mơ giải mã bế tắc
Thượng tá Trần Quang Lộc, hiện chuyển về làm dân vận thuộc Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Bình. Trước đó, ông đã có 8 năm gắn bó với chức danh đoàn phó 589, rồi đoàn trưởng. Mùa khô năm 1999 ông bắt đầu cùng đồng đội cơm đùm gạo bới sang tỉnh Khăm Muộn-Lào tìm đồng đội.
Nước Lào vốn trùng điệp núi rừng, sau nhiều thập kỷ chiến tranh cây cối đã bạt ngàn, chứng tích cuộc chiến trở thành di sản nhưng ngày càng phai mờ theo thời gian. Người dân Lào tốt bụng chỉ vẽ đường đi lối lại, tuy nhiên người biết bộ đội Việt Nam hy sinh ở đâu, chôn cất ở đâu, ngày một hiếm dần vì người già dần mất đi.
Thượng tá Lộc kể rằng: “Một lần vào bản Na Bò, huyện Nhombalat, tỉnh Khăm Muộn, dân bản thông tin, khu vực thung lũng trước bản có hai ngôi mộ của bộ đội Việt Nam. Chúng tôi ở lại, đào tìm hơn hai tháng trời nhưng không có. Cuối cùng quyết định hành quân trở ra. Nhưng rồi cả đoàn quyết định ở lại, đào tiếp, hôm sau phát hiện hai bộ hài cốt.
Mọi chuyện mới tốt đẹp. Rồi một lần, dân bản Na Muồng, huyện Hin Bun-Khăm Muộn, bảo trong bản có một ngôi mộ của liệt sĩ Ba. Tuy nhiên người biết vị trí ngôi mộ đã qua đời, người ta chỉ truyền miệng lại là ngôi mộ nằm dưới gốc cây khò, mà cây khò ở đây nhiều vô kể. Chúng tôi đào mãi từ gốc cây khò này qua gốc cây khò khác nhưng không tìm thấy. Đào hàng tháng trời không hiệu quả gì, trong thâm tâm tôi nghĩ đến việc rút lui. Nhưng hôm sau không ngờ có một người già xuất hiện, cụ vốn gốc gác ở bản, di cư qua tỉnh Bôlykhămxay sinh sống, hôm đó về thăm quê, mọi người hỏi, cụ xác nhận và nói không phải ở mấy cây khò trong bản mà là bên gốc cây khò giữa ruộng.
Chúng tôi đào ba nhát cuốc thì xương đùi bật lên, đào tiếp thì cất bốc được hài cốt liệt sĩ Ba. Hết bản Na Muồng, đoàn hành quân qua bản Noọng Xay, dân bản chỉ nghĩa trang của bộ đội Việt Nam ở trên núi. Thế là mọi người vào tìm kiếm. Lúc đặt nhát cuốc đầu tiên, tôi thấy điều lạ, cái nghĩa trang này đã được cất bốc vì đất có nhiều vũng trũng. Mọi người quyết định không tìm kiếm, sáng mai lên đường đi địa phương khác. Nhưng sáng hôm sau, anh em trong đoàn quyết định ở lại, đào xới nơi chưa có dấu hiệu đào, một hài cốt liệt sĩ được cất bốc, theo đoàn lên xe trở về quê hương”.
Hang Khẳm Cặng: Nấm mồ của gần 200 liệt sĩ
Công việc quy tập hài cốt liệt sĩ của Đoàn 589 rất vất vả, phải trèo đèo, lội suối và thường vướng phải sốt rét. |
Được người dân Khăm Muộn thông báo trong hang Khẳm Cặng có nhiều hài cốt liệt sĩ Việt Nam. Thời gian đó vào năm 2000, Thượng tá Trần Quang Lộc hoạt động ở vùng khác nhưng ông rất trằn trọc nỗi niềm làm sao tiếp cận được các anh để đưa về đất mẹ. Ông nhiều lần xác định lại nguồn tin, đề nghị phía bạn giúp đỡ, mỗi năm qua Lào làm nhiệm vụ, ngoài công việc được giao ra, ông vẫn thu thập tài liệu về hang Khẳm Cặng tại bản Phạ Nang, huyện Mahaxay, tỉnh Khăm Muộn.
Mùa khô năm 2004-2005 với tư cách Đoàn trưởng Đoàn 589, ông đã cùng đồng đội khăn gói trở lại đất nước Lào, nơi có vô số làn điệu dân ca của các bộ tộc Lào bất hủ. Chuyến đi này với mục đích khai quật hang Khẳm Cặng để giải mã thông tin thu thập được. Cuộc tìm kiếm giữa rừng sâu núi thẳm, trong hang đá bắt đầu. Khi chuyến tìm kiếm bước qua ngày thứ hai thấy chưa có khả năng thành công, ông bắt đầu hoài nghi thông tin, nhưng một người Lào bản địa đã chỉ rõ, thời chống Mỹ, hang Khẳm Cặng bị đánh phá ác liệt, một buổi chiều máy bay trút bom như nước đã làm sập trần hang, vùi lấp rất nhiều bộ đội Việt Nam trong đó.
Niềm tin được khẳng định thêm, Thượng tá Lộc quyết định chuyển hướng tìm kiếm từ nền đất sang đào sâu dưới các hòn đá tảng. Mấy nhát đào đầu tiên phát hiện hài cốt, tiếp đó phát hiện quân trang, quân cụ, tiếp nữa là rất nhiều bộ hài cốt còn nguyên hình nguyên xương. Đoàn 589 khi khai quật hang Khẳm Cặng phải đào đá, những hòn đá tảng nặng hàng tấn đè lên thân xác đồng đội, trong điều kiện dụng cụ thô sơ, thiếu thốn, họ rất vất vả khi xoay chuyển tư thế, phải đào hình hàm ếch mới đưa được hài cốt đồng đội ra khỏi muôn vàn khối đá nặng trịch đè lên thân thể liệt sĩ mấy chục năm qua.
Tổng kết cuộc khai quật hang Khẳm Cặng, Đoàn 589 cất bốc được 185 bộ hài cốt liệt sĩ. Sau khi hài cốt được cất bốc, chính phủ Lào cho xây dựng tượng đài tưởng niệm các anh hùng hy sinh trong hang Khẳm Cặng như biểu tượng đời đời ghi lại tình hữu nghị gắn bó sắt son.
Cái buồn Cà Xen và nỗi niềm Cuôn Xà Nạp
Thượng tá Trần Quang Lộc thổ lộ, trong cuộc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ gian khổ này, có những lúc niềm vui lan đến mọi người nhưng cũng có khi cái buồn ẩn nghẹn cả mấy tháng đến hàng năm trời. Cái buồn ở hang Cà Xen trên đường 28A, tỉnh Khăm Muộn là một điển hình. Người ta bảo với ông, có 16 người hy sinh trong đó, cửa hang đã bị đánh sập.
Lúc đoàn đến, cảnh tượng trong hang đã bị đào bới lung tung. Dân bản nói hang bị cày xới do một nhóm người đào tìm phế liệu. Họ đào tơi tả để lấy đi quân trang, quân dụng, lấy xoong nồi bằng nhôm, để lại vương vãi muôn vàn mảnh xương liệt sĩ tung tóe khắp nơi. Thượng tá Lộc lúc đó vừa làm vừa khóc nghẹn, anh em cũng nước mắt đầm đìa vì đồng đội hy sinh rồi cũng không được yên... 16 bộ hài cốt trong hang Cà Xen được ông và binh sĩ đoàn 589 cẩn trọng thu lượm tỉ mỉ, cố không bỏ sót một mẩu xương nhỏ nào như cách chăm sóc chu đáo nhất để đưa các anh cùng về quê hương.
Hiện tại, tuy đã chuyển sang lĩnh vực khác nhưng Thượng tá Lộc vẫn đau đáu nỗi niềm là sau này, bất cứ lúc nào có cơ hội, ông sẽ trở lại nước bạn Lào, đến với hang Cuôn Xà Nạp, bản Văng Khôn, tỉnh Khăm Muộn. Ở đó ông đã nắm chắc nguồn tin, có một đại đội hy sinh trong hang, khoảng hơn 100 người. Tâm sự với tôi, Thượng tá Lộc cứ đau đáu khôn nguôi mong một ngày nào đó chính tay ông phải đưa được các anh trong hang đá Cuôn Xà Nạp cùng về Tổ quốc.
Minh Phong
Nguồn: http://www.sggp.org.vn/phongsudieutra/2007/7/111465/